Ung thư đường mật là gì? Các công bố khoa học về Ung thư đường mật

Ung thư đường mật là một loại ung thư hiếm phát triển từ tế bào ống dẫn mật, hệ thống dẫn mật từ gan và túi mật tới ruột non. Nguyên nhân chưa rõ ràng, nhưng có một số yếu tố nguy cơ như viêm mãn tính, nhiễm ký sinh trùng, bệnh gan mãn tính, tuổi và giới tính. Triệu chứng thường không rõ ràng ở giai đoạn đầu gồm vàng da, nước tiểu đậm, ngứa da, và đau bụng. Chẩn đoán đòi hỏi các xét nghiệm máu, hình ảnh và nội soi. Điều trị chủ yếu là phẫu thuật, hóa trị, xạ trị và chăm sóc hỗ trợ.

Ung Thư Đường Mật: Giới Thiệu Tổng Quan

Ung thư đường mật, hay còn gọi là ung thư ống mật, là một loại ung thư hiếm gặp, phát triển từ các tế bào của ống dẫn mật. Ống mật là hệ thống đường ống mang mật từ gan và túi mật đến ruột non để hỗ trợ tiêu hóa. Nguyên nhân chính xác của ung thư đường mật vẫn chưa được xác định rõ ràng, nhưng có một số yếu tố nguy cơ đã được nhận diện.

Nguyên Nhân và Yếu Tố Nguy Cơ

Mặc dù nguyên nhân cụ thể của ung thư đường mật vẫn chưa được biết đến, các nhà nghiên cứu đã xác định một số yếu tố có thể góp phần vào sự phát triển của bệnh này:

  • Viêm đường mật mãn tính: Tình trạng viêm kéo dài trong các ống dẫn mật, chẳng hạn như viêm đường mật xơ hóa nguyên phát, có thể làm tăng nguy cơ ung thư.
  • Nhiễm ký sinh trùng: Các loại ký sinh trùng như sán lá gan, thường thấy ở các quốc gia Đông Nam Á, có thể gây nhiễm trùng mãn tính và dẫn đến ung thư.
  • Bệnh gan mãn tính: Xơ gan hoặc các bệnh gan mãn tính khác cũng có thể đóng vai trò trong sự phát triển của ung thư đường mật.
  • Tuổi tác và giới tính: Nguy cơ mắc bệnh tăng lên theo tuổi và phổ biến hơn ở nam giới.

Các Triệu Chứng Thường Gặp

Triệu chứng của ung thư đường mật có thể không rõ ràng ở giai đoạn đầu và có thể bao gồm:

  • Vàng da và mắt (bệnh vàng da)
  • Nước tiểu đậm màu
  • Ngứa da
  • Đau bụng hoặc chướng bụng
  • Giảm cân không rõ nguyên nhân
  • Sốt

Chẩn Đoán

Để chẩn đoán ung thư đường mật, cần thực hiện một số xét nghiệm và thủ thuật, bao gồm:

  • Xét nghiệm máu: Để kiểm tra chức năng gan và tìm dấu hiệu của chất chỉ thị ung thư.
  • Chẩn đoán hình ảnh: Siêu âm, CT, hoặc MRI có thể được sử dụng để phát hiện các bất thường trong đường mật.
  • Nội soi đường mật: Giúp bác sĩ nhìn thấy bên trong ống mật và lấy mẫu mô để kiểm tra.

Phương Pháp Điều Trị

Phương pháp điều trị chính cho ung thư đường mật thường là phẫu thuật nếu khối u có thể được loại bỏ. Các phương pháp điều trị hỗ trợ khác có thể bao gồm:

  • Hóa trị: Sử dụng thuốc để tiêu diệt tế bào ung thư hoặc ngăn chặn chúng phát triển.
  • Xạ trị: Sử dụng tia X hoặc các loại tia khác để tiêu diệt tế bào ung thư.
  • Chăm sóc hỗ trợ: Giảm nhẹ triệu chứng và cải thiện chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân.

Kết Luận

Ung thư đường mật là một bệnh lý nghiêm trọng với các triệu chứng không đặc hiệu ở giai đoạn đầu, điều này đòi hỏi sự chú ý đặc biệt đến các yếu tố nguy cơ và triệu chứng để phát hiện sớm và điều trị kịp thời. Nâng cao nhận thức và thúc đẩy nghiên cứu là rất quan trọng để cải thiện kết quả điều trị cho bệnh nhân.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "ung thư đường mật":

Ý nghĩa của các đại thực bào được kích hoạt thay thế ở bệnh nhân ung thư biểu mô đường mật trong gan nguyên phát Dịch bởi AI
Cancer Science - Tập 101 Số 8 - Trang 1913-1919 - 2010

Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng các đại thực bào liên quan đến khối u (TAMs) góp phần vào sự phát triển của khối u và dự đoán tiên lượng xấu trong nhiều bệnh ung thư khác nhau. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã khảo sát các quần thể và kiểu hình đại thực bào, cũng như mối tương quan của chúng với sự hình thành mạch, sự ức chế miễn dịch và tiên lượng lâm sàng ở bệnh nhân ung thư biểu mô đường mật trong gan nguyên phát (ICC). Sự xâm nhập của các đại thực bào CD68 (+) và CD163 (+) đã được phân tích trong các mẫu mô ướp paraffin từ 39 bệnh nhân. CD163 được sử dụng như một dấu hiệu của các đại thực bào M2. Ngoài ra, sự hình thành tân mạch và sự xâm nhập của các tế bào T điều hòa dương tính với forkhead box P3 (FOXP3) cũng được đánh giá. Số lượng đại thực bào CD68 (+) và CD163 (+) có mối tương quan dương tính với số lượng mạch và tế bào T điều hòa. Số lượng tế bào CD163 (+) được liên kết chặt chẽ hơn với chúng. Bệnh nhân ICC có số lượng đại thực bào CD163 (+) cao cho thấy sống sót không bệnh kém (P = 0.0426). Mật độ đại thực bào không có mối liên hệ với sự sống sót tổng thể. Trong một nghiên cứu in vitro sử dụng các dòng tế bào ICC (HuCCT1, RBE và MEC) và đại thực bào người, supernatant tế bào khối u (TCS) từ các dòng tế bào đã kích hoạt một sự kích hoạt các tín hiệu truyền dẫn và hoạt hóa của yếu tố phiên mã-3 (Stat3) và sự phân hóa đại thực bào về kiểu hình M2. Supernatant tế bào khối u (TCS) từ HuCCT1 đã kích thích mạnh mẽ nhất việc kích hoạt Stat3 và sản xuất các cytokine và các phân tử sinh học hoạt động khác như interleukin (IL)-10, yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu (VEGF)-A, yếu tố tăng trưởng biến đổi (TGF)-β và metalloproteinase matrice (MMP)-2. Việc giảm điều hòa Stat3 bằng siRNA đã làm giảm đáng kể sự sản xuất IL-10 và VEGF-A. Những kết quả này cung cấp bằng chứng gợi ý rằng TAMs góp phần vào quá trình tiến triển của ung thư thông qua việc kích hoạt Stat3, và CD163 là hữu ích để đánh giá các TAM M2 và dự đoán tiên lượng lâm sàng ở bệnh nhân ICC. (Cancer Sci)

#tumor-associated macrophages #intrahepatic cholangiocarcinoma #CD163 #M2 macrophages #Stat3 activation #clinical prognosis
Tắc mạch tĩnh mạch cửa trước khi đại phẫu gan cho bệnh nhân ung thư đường mật: Kỹ thuật hiện tại và tổng quan 494 trường hợp tắc mạch liên tiếp Dịch bởi AI
Digestive Surgery - Tập 29 Số 1 - Trang 23-29 - 2012

<i>Bối cảnh:</i> Tắc mạch tĩnh mạch cửa (PVE) đã được áp dụng rộng rãi trước khi thực hiện đại phẫu gan; tuy nhiên, tính hữu ích lâm sàng của nó ở bệnh nhân ung thư đường mật chưa được giải quyết đầy đủ. <i>Phương pháp:</i> Giữa năm 1991 và 2010, 494 bệnh nhân mắc cholangiocarcinoma (n = 353) hoặc ung thư túi mật (n = 141) đã trải qua PVE trước khi thực hiện đại phẫu gan. PVE được thực hiện theo phương pháp tiếp cận mạch máu xuyên gan phía bên cùng bên với việc sử dụng keo fibrin hoặc ethanol tuyệt đối cùng với các cuộn thép. Kết quả phẫu thuật của nhóm bệnh nhân này đã được xem xét hồi cứu. <i>Kết quả:</i> Các biến chứng liên quan đến PVE cần can thiệp đã được ghi nhận ở 3 (0.6%) trong số 494 bệnh nhân; không có bệnh nhân nào tử vong do những biến chứng này. Trong số 494 bệnh nhân, 122 (24.7%) không thực hiện phẫu thuật gan tiếp theo. Tỷ lệ không thể phẫu thuật cao hơn đáng kể ở bệnh nhân ung thư túi mật so với bệnh nhân mắc cholangiocarcinoma [43.2% (61/141) so với 17.3% (61/353), p < 0.001]. 372 bệnh nhân còn lại đã trải qua phẫu thuật gan, và 24 (6.5%) trong số họ đã tử vong do biến chứng sau phẫu thuật [13 trong 80 (16.3%) bệnh nhân ung thư túi mật so với 11 trong 292 (3.8%) bệnh nhân mắc cholangiocarcinoma, p < 0.05]. Tỷ lệ sống sót tổng thể cho bệnh nhân mắc cholangiocarcinoma tốt hơn đáng kể so với bệnh nhân ung thư túi mật, trong đó tỷ lệ sống sót sau 5 năm lần lượt là 39% và 23% (p < 0.001). Ba mươi sáu bệnh nhân mắc cholangiocarcinoma và 10 bệnh nhân ung thư túi mật đã sống sót hơn 5 năm sau phẫu thuật mở rộng. <i>Kết luận:</i> PVE có thể được thực hiện một cách an toàn ở những bệnh nhân có gan tắc mật, và nó có lợi ích tiềm năng cho bệnh nhân ung thư đường mật giai đoạn muộn sẽ trải qua phẫu thuật gan mở rộng khó khăn.

#Tắc mạch tĩnh mạch cửa #ung thư đường mật #phẫu thuật gan #cholangiocarcinoma #ung thư túi mật
Đánh giá lại tác động tiên lượng của SUVmax khối u qua 18F‐FDG‐PET/CT trong ung thư đường mật intrahepatic Dịch bởi AI
World Journal of Surgery - - 2019
Tóm tắtĐặt vấn đề

Chúng tôi đã báo cáo trước đây rằng giá trị tương đối của khối u (SUVmax) qua 18F-đường glucose phóng xạ-positron emission tomography/chụp cắt lớp vi tính (PET/CT) là một chỉ số dự đoán tiềm năng ở những bệnh nhân phẫu thuật ung thư đường mật intrahepatic (ICC). Tuy nhiên, giá trị tiên lượng của SUVmax trong thời đại chiến lược đa ngành vẫn còn chưa rõ ràng. Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá lại giá trị tiên lượng của SUVmax khối u ở những bệnh nhân phẫu thuật ung thư ICC.

Phương pháp

Dữ liệu từ 82 bệnh nhân ICC liên tiếp, những người đã trải qua 18F-FDG-PET/CT và phẫu thuật tiếp theo trong khoảng thời gian từ 2006 đến 2017, đã được lấy từ một cơ sở dữ liệu do tổ chức duy trì. Chiến lược hỗ trợ đã được áp dụng trong thời gian nghiên cứu này tại trung tâm của chúng tôi.

Kết quả

SUVmax khối u có liên quan đến kích thước khối u (p = 0.002) và số lượng khối u (p = 0.005), nhưng không có liên quan đến giai đoạn T và N được phân loại theo hệ thống phân loại của Ủy ban Chung Mỹ về Ung thư, và các yếu tố khối u khác. Theo các giá trị cắt từ SUVmax khối u là 8.0 dựa trên phương pháp giá trị p thấp nhất, tỷ lệ sống sót toàn bộ (OS) sau 5 năm theo công thức actuarial ở những bệnh nhân thực hiện phẫu thuật ngay lập tức cho ICC được phân tầng có ý nghĩa ở mức 54.7% so với 26.0% (nhóm SUVmax khối u thấp so với cao, p = 0.008). Tỷ lệ sống sót không bệnh sau 3 năm (DFS) cũng được phân tầng có ý nghĩa ở mức 41.0% so với 18.3% (p < 0.001). Phân tích hồi quy Cox đa biến cho thấy rằng SUVmax khối u vẫn giữ được ý nghĩa trên OS (p = 0.039) cũng như DFS (p < 0.001).

Kết luận

Kể cả trong thời đại chiến lược đa ngành, SUVmax khối u cao vẫn biểu thị tiên lượng kém ở những bệnh nhân phẫu thuật cho ICC. Do đó, những bệnh nhân này có thể cần những chiến lược hiệu quả hơn.

ĐẶC ĐIỂM HÌNH ẢNH VÀ GIÁ TRỊ CỦA CỘNG HƯỞNG TỪ TRONG CHẨN ĐOÁN UNG THƯ ĐƯỜNG MẬT RỐN GAN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 506 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm hình ảnh cộng hưởng từ của ung thư đường mật rốn gan, giá trị của cộng hưởng từ trong chẩn đoán xác định và chẩn đoán giai đoạn bệnh. Đối tượng nghiên cứu: Mô tả tiến cứu gồm 35 bệnh nhân với chẩn đoán lâm sàng ung thư đường mật rốn gan và được chụp cộng hưởng từ tại bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức từ tháng 7 năm 2019 đến tháng 7 năm 2021. Kết quả: Kích thước trung bình của thể khối và thể phát triển trong lòng đường mật  3,86±1,77cm; với thể thâm nhiễm, độ dày thành đường mật trung bình 6,53±4,04mm, chiều dài đoạn dày là 25,47±6,87mm. Trên chuỗi xung T1W, phần lớn u giảm hoặc đồng tín hiệu (93,8%), tín hiệu trên chuỗi xung T2W thay đổi. 96,8% trường hợp u hạn chế khuếch tán trên DWI. CHT có độ nhạy 100%, độ đặc hiệu 25%, giá trị dự báo dương tính 91,2%, giá trị dự báo âm tính 100%, độ chính xác 91,4% trong chẩn đoán ung thư đường mật rốn gan. CHT chẩn đoán đúng giai đoạn 83,9% trường hợp. Kết luận: Ung thư đường mật rốn gan thường giảm hoặc đồng tín hiệu trên chuỗi xung T1W, tín hiệu thay đổi trên chuỗi xung T2W, hạn chế khuếch tán trên DWI. Cộng hưởng từ là phương pháp rất có giá trị trong chẩn đoán và đánh giá giai đoạn của ung thư đường mật rốn gan.
#ung thư đường mật rốn gan #cộng hưởng từ #chẩn đoán giai đoạn
Đánh giá các biến chứng của đặt stent đường mật qua nội soi mật tụy ngược dòng trong điều trị tắc mật do ung thư
Mục tiêu: Đánh giá các biến chứng của đặt stent đường mật qua nội soi mật tụy ngược dòng điều trị tắc mật do ung thư. Đối tượng và phương pháp: 88 bệnh nhân bị tắc mật do ung thư, được tiến hành đặt stent đường mật qua nội soi mật tụy ngược dòng, điều trị nội trú tại Khoa Nội tiêu hóa, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 giai đoạn từ tháng 10/2014 đến tháng 10/2018. Nghiên cứu tiến cứu, can thiệp không đối chứng, theo dõi dọc trước sau điều trị. Kết quả: Trong số 80 bệnh nhân đặt stent thành công, tỷ lệ biến chứng sớm là 17,5%; chủ yếu là viêm đường mật - chiếm 10,0%, không có biến chứng nặng. Biến chứng muộn chiếm tỷ lệ 51,5% ở 68 bệnh nhân đặt stent lâu dài điều trị giảm nhẹ; trong đó chủ yếu là stent mất chức năng dẫn lưu (42,6%), viêm đường mật khi stent chưa mất chức năng dẫn lưu (19,1%). Kết luận: Biến chứng của đặt stent đường mật qua nội soi mật tụy ngược dòng khá thường gặp, nhất là các biến chứng muộn; chủ yếu là các biến chứng mức độ nhẹ và trung bình.
#Tắc mật do ung thư #stent đường mật
Đánh giá kết quả đặt stent đường mật qua nội soi mật tụy ngược dòng trong điều trị tắc mật do ung thư
Mục tiêu: Đánh giá kết quả đặt stent đường mật (ĐM) qua nội soi mật tụy ngược dòng (NSMTND) điều trị tắc mật do ung thư (TMDUT). Đối tượng và phương pháp: 88 bệnh nhân (BN) TMDUT, được đặt stent ĐM qua NSMTND điều trị nội trú tại Bộ môn - Khoa Nội tiêu hóa, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 giai đoạn từ tháng 10/2014 đến tháng 10/2018. Nghiên cứu tiến cứu, can thiệp không đối chứng, theo dõi dọc trước sau điều trị. Kết quả: Tỷ lệ thành công kỹ thuật là 80/88 (90,9%) BN. Tỷ lệ dẫn lưu thành công về chức năng đạt 80/80 (100%) BN. 12/12 (100%) BN đặt stent trước mổ đủ điều kiện phẫu thuật với trung vị thời gian đặt stent trước mổ là 17,5 ngày. Sau đặt stent 1 tháng, ở 68 BN đặt stent điều trị giảm nhẹ, cải thiện lâm sàng ở phần lớn các trường hợp, nồng độ bilirubin TP huyết thanh giảm > 75% so với trước đặt stent hoặc trở về ngưỡng bình thường ở 57/68 (83,8%) BN. Kết quả lâu dài cho thấy trung vị thời gian sống thêm là 175 ngày, thời gian dẫn lưu hiệu quả (thời gian stent thông) của stent kim loại vượt trội so với stent nhựa với trung vị tương ứng là 266 ngày và 142 ngày (p<0,001). Kết luận: Đặt stent đường mật qua NSMTND ở BN tắc mật do ung thư có kết quả dẫn lưu tốt với cả điều trị giảm nhẹ hoặc trước phẫu thuật.
#Tắc mật do ung thư #stent đường mật
Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân tắc mật do ung thư
Mục tiêu: Nhận xét một số đặc điểm lâm sàng, một số xét nghiện cận lâm sàng ở bệnh nhân hẹp tắc đường mật ác tính. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả 88 bệnh nhân bị tắc mật do ung thư, được tiến hành đặt stent đường mật qua nội soi mật tụy ngược dòng điều trị nội trú tại Bộ môn - Khoa Nội tiêu hóa, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 giai đoạn từ tháng 10/2014 đến tháng 10/2018. Kết quả: Tuổi trung bình 62,4 ± 12,2 năm. Triệu chứng lâm sàng thường gặp là vàng da, chán ăn, sụt cân, đau bụng, ngứa với tỷ lệ tương ứng là: 100%, 94,3%, 89,8%, 83,0%, 63,6%. Nồng độ bilirubin toàn phần trong huyết thanh trung bình là 315,1 ± 133,41 (µmol/l). 88/88 bệnh nhân (100,0%) có giãn đường mật trong gan cả 2 bên. Kích thước trung bình khối u gây tắc mật và độ dài đoạn đường mật bị chít hẹp tương ứng là: 43,8 ± 31,7/35,6 ± 26,6 và 28,2 ± 8,9mm. Nguyên nhân gây tắc mật hay gặp gồm ung thư tụy, đường mật rốn gan, đường mật đoạn thấp, gan và đường mật trong gan với các tỷ lệ tương ứng là 31,8%, 21,6%, 15,9%, 10,2% và 9,1%. Kết luận: Tắc mật do ung thư thường gặp ở bệnh nhân trung hoặc cao tuổi, triệu chứng lâm sàng thường gặp là vàng da, chán ăn, sụt cân, đau bụng, ngứa kèm theo tổng trạng suy sụp. Nồng độ bilirubin toàn phần trong huyết thanh tăng cao kèm theo hình ảnh khối u gây tắc nghẽn đường mật. Nguyên nhân ung thư gây tắc mật chủ yếu là ung thư tụy và ung thư đường mật ngoài gan.
#Tắc mật do ung thư #stent đường mật
ĐẶC ĐIỂM GIẢI PHẪU BỆNH CỦA UNG THƯ BIỂU MÔ ĐƯỜNG MẬT TRONG GAN THEO PHÂN LOẠI WHO 2019 TẠI BỆNH VIỆN BẠCH MAI GIAI ĐOẠN 2019-2022
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 521 Số 2 - 2022
Ung thư biểu mô đường mật trong gan (UTBMĐMTG) là một nhóm các khối u ác tính không đồng nhất, đứng thứ hai trong các tổn thương ác tính của gan chỉ sau ung thư biểu mô tế bào gan. Năm 2019, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã đưa ra bảng phân loại mới bao gồm hai nhóm chính là UTBMĐMTG típ ống lớn và UTBMĐMTG típ ống nhỏ và các thứ típ hiếm gặp. Mục tiêu: Xác định tỷ lệ các típ mô bệnh học của ung thư biểu mô đường mật trong gan theo WHO 2019 và đối chiếu hai típ mô bệnh học chính với một số đặc điểm giải phẫu bệnh – lâm sàng. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Gồm 34 trường hợp UTBMĐMTG được phẫu thuật tại bệnh viện Bạch Mai từ 01/2019 đến tháng 06/2022. Kết quả nghiên cứu: Típ ống lớn chiếm 41.2%, típ ống nhỏ 50.0%, 02 trường hợp UTBM típ tuyến vảy và 01 trường hợp típ dạng lympho-biểu mô. U biệt hóa vừa chiếm 61.8% và kém biệt hóa chiếm 38.2%. pT1 chiếm ưu thế với 73.5%. Tỷ lệ di căn hạch là 26.5%, xâm nhập mạch là 20.6% và xâm nhập thần kinh là 50.0%. UTBMĐMTG típ ống lớn có liên quan đến tình trạng xâm nhập thần kinh cao hơn (p=0.020) và nồng độ trung bình CA19-9 huyết thanh trước mổ cao hơn nhiều lần so với típ ống nhỏ (p<0.001). Không tìm thấy mối liên quan giữa phân típ mô bệnh học với các yếu tố kích thước u, độ mô học, mức độ xâm lấn của u, tình trạng di căn hạch và tình trạng xâm nhập mạch máu (p>0.05). Kết luận: Típ ống lớn chiếm 41.2%, típ ống nhỏ 50.0%. UTBMĐMTG típ ống lớn có liên quan đến tình trạng xâm nhập thần kinh và nồng độ trung bình CA19-9 huyết thanh trước mổ cao hơn típ ống nhỏ.
#Ung thư biểu mô đường mật trong gan #Mô bệnh học #Ống mật lớn #ống mật nhỏ
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU ĐIỀU TRỊ PHÁC ĐỒ GEMCITABINE KẾT HỢP CISPLATIN TRONG UNG THƯ ĐƯỜNG MẬT GIAI ĐOẠN MUỘN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 506 Số 2 - 2021
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kết quả bước đầu điều trị và độc tínhphác đồ gemcitabine kết hợp cisplatin trong điều trị bệnh nhân ung thư biểu mô đường mật giai đoạn muộn tại bệnh viện K năm 2015-2020. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, hồi cứu kết hợp tiến cứu trên 55 bệnh nhân ung thư biểu mô đường mật giai đoạn muộn được điều trị hóa chất phác đồ gemcitabine - cisplatin tại bệnh viện K từ 1/2015 đến hết tháng 12/2020. Kết quả: Tỷ lệ kiểm soát triệu chứng cơ năng là 63,7%. Tỷ lệ kiểm soát bệnh là 67,4%, trong đó có 5,5% đáp ứng hoàn toàn, đáp ứng một phần chiếm 27,3%, bệnh ổn định 34,6%. Độc tính trên hệ tạo huyết: Giảm hồng cầu độ 3,4 lần lượt là 3,2 và 1,3%, giảm bạch cầu trung tính dộ 3,4 là 7,2 và 5,9%. Các độc tính trên gan thận chủ yếu gặp độ 1, độ 2.  Kết luận: Gemcitabine – cisplatin là phác đồ hiệu quả trong điều trị ung thư biểu mô đường mật giai đoạn muộn.
#Ung thư biểu mô đường mật #giai đoạn muộn #gemcitabine – cisplatin #độc tính
MỐI LIÊN QUAN GIỮA NỒNG ĐỘ CA19-9, CEA HUYẾT THANH VỚI MỘT SỐ YẾU TỐ Ở BỆNH NHÂN UNG THƯ ĐƯỜNG MẬT
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 498 Số 2 - 2021
Đặt vấn đề: Ung thư đường mật (CCA) là một khối u ác tính nguyên phát bắt nguồn từ các tế bào biểu mô ống mật. Bệnh thường phát hiện ở giai đoạn muộn và tiên lượng xấu của khối u này dẫn đến nhu cầu cấp thiết tìm hiểu về dấu ấn sinh học. Mục tiêu: Đánh giá mối liên quan giữa nồng độ CA 19-9, CEA huyết thanh với một số yếu tố ở bệnh nhân ung thư đường mật. Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện ở 52 bệnh nhân CCA. Bệnh nhân được làm các xét nghiệm miễn dịch, chụp CT bụng, nội soi, xạ hình xương đánh giá di căn. Chẩn đoán xác định bằng sinh thiết và xét nghiệm mô bệnh học bằng phương pháp nhuộm Hematoxylin-Eosin. Kết quả: Tỉ lệ tăng CA 19-9 là 63.5%. Tỉ lệ tăng CEA là 44.2%. CA 19-9 cao nhất (756.2 ± 871.3) ở giai đoạn 3 theo TNM, p = 0.9. CEA cao nhất (184.6 ± 371.2) ở giai đoạn 3 theo TNM, p = 0.3. CA 19-9 của ung thư đường mật trong gan là 715.3 ± 605.7, ngoài gan 436.2 ± 517.5, p = 0.2. CEA của ung thư đường mật trong gan là 88.0 ± 268.9, ngoài gan 17.6 ± 23.4, p = 0.4. Nồng độ CA 19-9 và kích thước khối u có mối liên hệ tương quan tuyến tính yếu, r = 0.22 (r < 0.3), p = 0.11. Nồng độ CEA và kích thước khối u có mối liên hệ tương quan tuyến tính yếu, r = 0.19 (r < 0.3), p = 0.17. Nồng độ CA 19-9 trung bình của những bệnh nhân được cắt gan là 278.4 ± 522.6 thấp hơn nhiều so với những bệnh nhân không thể cắt gan 756.8 ± 582.4, p = 0.02. Nồng độ CEA trung bình của những bệnh nhân được cắt gan là 49.8 ± 122.1 thấp hơn so với những bệnh nhân không thể cắt gan 82.6 ± 268.0, p = 0.7. Kết luận: Nồng độ CA 19-9 ở bệnh nhân cắt gan thấp hơn so với bệnh nhân điều trị bằng hóa chất, xạ trị, điều trị giảm nhẹ. Chưa thấy mối liên quan giữa CEA và giai đoạn TNM, phân loại ung thư đường mật, chỉ định điều trị.
#Ung thư đường mật #Carbohydrate antigen 19-9 #Carcinoembryonic antigen
Tổng số: 87   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 9